Sởi là loại bệnh truyền nhiễm cấp tính lây qua đường hô hấp do virus gây ra có thể gặp ở nhiều đối tượng đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi, có thể xuất hiện ở người lớn do chưa được tiêm phòng hoặc đã tiêm phòng nhưng chưa được tiêm đầy đủ. Sởi rất dễ lây lan và bùng phát thành ổ dịch, mặc dù phần lớn trẻ mắc bệnh đều có thể hồi phục sau một thời gian nhưng ở những trẻ có sức đề kháng kém như trẻ nhũ nhi thì bệnh có thể diễn tiến nặng và gây ra biến chứng về sau.
Trong năm qua tình hình dịch bệnh Sởi trên địa bàn tỉnh Đồng Nai diễn biến hết sức phức tạp, đây là năm có số ca mắc bệnh Sởi tăng đột biến so với các năm trước. Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC tỉnh) tính từ đầu năm 2024 đến ngày 28/12/2024, trên địa bàn tỉnh ghi nhận hơn 5.600 ca bệnh Sởi, đã ghi nhận 03 ca tử vong do Sởi. Trên địa bàn huyện ghi nhận 275 ca, tăng 275 ca so với cùng kỳ năm 2023 (00 ca), đã ghi nhận 01 trường hợp tử vong do Sởi.
- Nguyên nhân gây bệnh.
Bệnh sởi do vi rút sởi thuộc nhóm Paramyxovirus gây nên. Đây là loại virus có sức chịu đựng yếu, dễ bị tiêu diệt bởi các thuốc sát khuẩn thông thường, ánh sáng mặt trời…virus sởi tồn tại ở họng và máu bệnh nhân từ cuối thời kì ủ bệnh đến sau khi phát ban một thời gian ngắn. Bệnh rất dễ lây, thường gặp ở trẻ em, gây viêm long ở kết mạc mắt, đường hô hấp, tiêu hoá và các phát ban đặc hiệu. Có nhiều biến chứng nặng nề.
2. Đường lây: Người là nguồn bệnh duy nhất, lây trực tiếp qua đường hô hấp hoặc khi tiếp xúc trực tiếp với chất tiết mũi, họng của bệnh nhân.
3. Triệu chứng của bệnh sởi:
a. Thời kỳ ủ bệnh: 10 -12 ngày.
b. Thời kỳ khởi phát:
- Hội chứng nhiễm khuẩn: Sốt 38,5 độC- 40 độC, kèm theo nhức đầu, mệt mỏi
- Hội chứng xuất tiết niêm mạc:
+ Mắt: Kết mạc đỏ, phù mi mắt, chảy nước mắt, sợ ánh sắng.
+ Hô hấp: Sổ mũi, hắt hơi, khản tiếng, ho khan, có khi có ít đờm.
+ Tiêu hoá: Nôn, đi ngoài phân lỏng.
- Có hạt nội ban: Trên nền niêm mạc má viêm đỏ nổi lên những chấm trắng nhỏ, đường kính khoảng 1 mm.
c. Thời kỳ toàn phát:
- Sốt cao 39 độ C – 40 độ C, có thể mê sảng co giật, ho nhiều, viêm nhiễm và xuất tiết đường hô hấp, chảy nước mắt.
- Phát ban với đặc điểm:
+ Là ban dát sẩn, màu đỏ, hồng hay tía. Hình tròn hoặc hình bầu dục, to bằng hạt đậu, hay cánh bèo tấm, sờ vào mềm, mịn như sờ vào tấm vải nhung, giữa các ban sởi có khoảng da lành.
+ Thứ tự mọc ban:
Ngày thứ nhất: Ban sởi mọc ở chân tóc, sau tai, sau gáy, trán, má đầu, mặt, cổ.
Ngày thứ hai: Ban mọc tới ngực lưng và hai tay.
Ngày thứ ba: Ban mọc xuống bụng và hai chân.
+ Ban sởi tồn tại hai đến ba ngày rồi lặn theo trình tự đã mọc để lại trên da những vết thâm vằn như da hổ da báo. Khi ban lặn các dấu hiệu lâm sàng khác giảm dần.
4. Biến chứng:
Virus sởi phá huỷ lớp biểu mô niêm mạc và hệ thống miễn dịch, làm giảm lượng vitamin A, do đó có nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm khác.
- Bội nhiễm: Viêm phổi, viêm phế quản, viêm thanh quản, viêm tai giữa.
- Thần kinh: Viêm não sau sởi.
- Suy dinh dưỡng do ăn uống kiêng khem.
- Loét miệng: Các vết loét ở trong miệng, môi lưỡi; vết loét có màu đỏ, được phủ một lớp trắng rất đau. Vết loét có thể sâu, rộng làm cho trẻ ăn khó khăn.
- Chảy mủ mắt.
- Mờ giác mạc, đây là dấu hiệu nguy hiểm có thể do thiếu vitamin A.
5. Phòng bệnh:
- Tiêm phòng vắc xin Sởi đầy đủ cho trẻ em khi đủ 9 tháng tuổi. Tiêm nhắc lại lúc trẻ đủ 18 tháng tuổi; tiêm bổ sung theo chương trình tiêm chủng mở rộng từ 4-6 tuổi hoặc khi có dịch bệnh Sởi là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất.
- Thực hiện vệ sinh môi trường, đảm bảo nhà cửa sạch sẽ và thông thoáng. Tăng cường vệ sinh cá nhân, sát trùng mũi họng hàng ngày bằng các dung dịch sát khuẩn thông thường hoặc bằng nước muối 9‰, giữ ấm cơ thể, ăn uống đủ chất dinh dưỡng nâng cao thể trạng để tăng sức đề kháng cho cơ thể.
- Khi có các biểu hiện sốt phát ban dạng sởi thì cần đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời tránh biến chứng nguy hiểm.
- Bệnh nhân mắc sởi tùy mức độ nặng nhẹ sẽ được cách ly tại nhà hoặc điều trị tại cơ sở điều trị theo nguyên tắc cách ly đối với bệnh lây truyền qua đường hô hấp.
- Người chăm sóc bệnh nhân Sởi cần đeo khẩu trang, rửa sạch tay trước và sau mỗi lần tiếp xúc với người bệnh.